I. CHÍNH SÁCH THUẾ
1. Giá thanh toán trên hợp đồng chuyển nhượng vốn không phù hợp với giá thị trường thì cơ quan thuế có quyền ấn định giá chuyển nhượng
Công văn số 1755/CT-TTHT của Cục thuế Thành phố Hà Nội về chính sách thuế đối với hoạt động chuyển nhượng vốn:
– Căn cứ Điều 14 Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính (được sửa đổi, bổ sung tại Điều 8 Thông tư số 96/2015/TT-BTC ngày 22/6/2015 của Bộ Tài chính) hướng dẫn về thuế TNDN đối với hoạt động chuyển nhượng vốn:
Trường hợp hợp đồng chuyển nhượng không quy định giá thanh toán hoặc cơ quan thuế có cơ sở để xác định giá thanh toán không phù hợp theo giá thị trường, cơ quan thuế có quyền kiểm tra và ấn định giá chuyển nhượng. Doanh nghiệp có chuyển nhượng một phần vốn góp trong doanh nghiệp mà giá chuyển nhượng đối với phần vốn góp này không phù hợp theo giá thị trường thì cơ quan thuế được ấn định lại toàn bộ giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm chuyển nhượng để xác định lại giá chuyển nhượng tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp chuyển nhượng.
Căn cứ ấn định giá chuyển nhượng dựa vào tài liệu điều tra của cơ quan thuế hoặc căn cứ giá chuyển nhượng vốn của các trường hợp khác ở cùng thời gian, cùng tổ chức kinh tế hoặc các hợp đồng chuyển nhượng tương tự tại thời điểm chuyển nhượng. Trường hợp việc ấn định giá chuyển nhượng của cơ quan thuế không phù hợp thì được căn cứ theo giá thẩm định của các tổ chức định giá chuyên nghiệp có thẩm quyền xác định giá chuyển nhượng tại thời điểm chuyển nhượng theo đúng quy định.
Doanh nghiệp có hoạt động chuyển nhượng vốn cho tổ chức, cá nhân thì phần giá trị vốn chuyển nhượng theo hợp đồng chuyển nhượng có giá trị từ hai mươi triệu đồng trở lên phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt. Trường hợp việc chuyển nhượng vốn không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì cơ quan thuế có quyền ấn định giá chuyển nhượng.
Căn cứ các quy định trên, Cục Thuế TP Hà Nội trả lời nguyên tắc như sau:
– Trường hợp Công ty TNHH Công nghệ Bắc Hà phát sinh hoạt động nhận chuyển nhượng vốn góp của tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài (không cư trú tại Việt Nam) thì Công ty TNHH Công nghệ Bắc Hà có trách nhiệm kê khai, khấu trừ và nộp thuế thay tổ chức nước ngoài, cá nhân không cư trú. Trường hợp giá thanh toán trên hợp đồng chuyển nhượng vốn không phù hợp với giá thị trường thì cơ quan thuế có quyền ấn định giá chuyển nhượng theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
2. Chuyển lợi nhuận ra nước ngoài cho Công ty mẹ theo hình thức cấn trừ công nợ với khoản phải thu Công ty mẹ thì hình thức chuyển lợi nhuận này chưa phù hợp với Thông tư số 186/2010/TT-BTC. Đồng thời việc thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu của Công ty theo hình thức cấn trừ công nợ không được coi là thanh toán qua ngân hàng
Công văn Số 3142/CTTPHCM-TTHT của Cục thuế Tp. HCM
Căn cứ Thông tư số 186/2010/TT-BTC ngày 18/11/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước ngoài có lợi nhuận từ việc đầu tư trực tiếp tại việt nam theo quy định của luật đầu tư;
Tại Điều 16 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn Luật thuế giá trị gia tăng:
“Điều 16. Điều kiện khấu trừ, hoàn thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu
Hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu (trừ các trường hợp hướng dẫn Điều 17 Thông tư này) để được khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT đầu vào phải có đủ điều kiện và các thủ tục nêu tại khoản 2 Điều 9 và khoản 1 Điều 15 Thông tư này
Căn cứ công văn số 2862/TCT-CS ngày 16/7/2020 của Tổng cục Thuế về chính sách thuế,
Căn cứ quy định trên và văn bản trình bày, trường hợp Công ty thực hiện chuyển lợi nhuận ra nước ngoài cho Công ty KMS US (Công ty mẹ) theo hình thức cấn trừ công nợ với khoản phải thu Công ty mẹ thì hình thức chuyển lợi nhuận này chưa phù hợp với Thông tư số 186/2010/TT-BTC. Đồng thời việc thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu của Công ty theo hình thức cấn trừ công nợ như trình bày không được coi là thanh toán qua ngân hàng nên Công ty không đủ điều kiện để được khấu trừ, hoàn thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu theo quy định tại Điều 16 Thông tư số 219/2013/TT-BTC.
3. Nhập khẩu hàng tặng làm mẫu hoặc hàng có trả tiền dùng tờ khai phi mậu dịch được khấu trừ thuế GTGT
Công văn 15629/CT-TTHT của Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh
Căn cứ Điều 14 Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT quy định về nguyên tắc khấu trừ thuế GTGT đầu vào:
“1. Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ, kể cả thuế GTGT đầu vào không được bồi thường của hàng hóa chịu thuế GTGT bị tổn thất.”
Căn cứ Khoản 10 Điều 1 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật GTGT và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế GTGT (đã được sửa đổi, bổ sung theo thông tư số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 và Thông tư số 151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014 của Bộ tài chính) như sau:
“Điều 15. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào:
1. Có hóa đơn giá trị gia tăng hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
2. Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu) từ hai mươi triệu đồng trở lên, trừ các trường hợp giá trị hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng, hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn dưới hai mươi triệu đồng theo giá đã có thuế GTGT và trường hợp cơ sở kinh doanh nhập khẩu hàng hóa là quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài.
Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt gồm chứng từ thanh toán qua ngân hàng và chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt khác hướng dẫn tại khoản 3 và khoản 4 Điều này.”
Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp theo trình bày, Công ty nhận hàng mẫu từ các nhà cung ứng nước ngoài mà không phải thanh toán, nếu việc nhập hàng mẫu này có đầy đủ chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu, đáp ứng điều kiện quy định tại Khoản 10 Điều 1 Thông tư số 26/2015/TT-BTC và dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ bán ra chịu thuế GTGT thì Công ty được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào khâu nhập khẩu; Trường hợp hàng mẫu nhập về không dùng cho sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT thì không được khấu trừ.
4. Công ty ở nước ngoài cung cấp dịch vụ thử nghiệm mẫu hàng hóa ở nước ngoài trước khi nhập khẩu về Việt Nam cho Công ty ở Việt Nam thì dịch vụ thử nghiệm này thuộc đối tượng áp dụng thuế nhà thầu tại Việt Nam
Công văn số 3117/TCT-CS của Tổng cục thuế
Tổng cục Thuế nhận được công văn số 2302/CV-VTD ngày 22/2/2023 của Công ty TNHH Phát triển Kỹ thuật Việt Nam hỏi về chính sách thuế nhà thầu. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
– Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 06/08/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam quy định về đối tượng áp dụng như sau:
“1. Tổ chức nước ngoài kinh doanh có cơ sở thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; cá nhân nước ngoài kinh doanh là đối tượng cư trú tại Việt Nam hoặc không là đối tượng cư trú tại Việt Nam (sau đây gọi chung là Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài) kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng, thỏa thuận, hoặc cam kết giữa Nhà thầu nước ngoài với tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc giữa Nhà thầu nước ngoài với Nhà thầu phụ nước ngoài để thực hiện một phần công việc của Hợp đồng nhà thầu.”
– Khoản 3 Điều 2 Thông tư số 103/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính nêu trên quy định về đối tượng không áp dụng như sau:
“3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài có thu nhập từ dịch vụ được cung cấp và tiêu dùng ngoài Việt Nam…”
– Khoản 1 Điều 6 Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 06/08/2014 của Bộ Tài chính nêu trên quy định:
“Điều 6. Đối tượng chịu thuế GTGT
1. Dịch vụ hoặc dịch vụ gắn với hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT do Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài cung cấp trên cơ sở hợp đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu phụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng tại Việt Nam…, bao gồm:
– Dịch vụ hoặc dịch vụ gắn với hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT do Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài cung cấp tại Việt Nam và tiêu dùng tại Việt Nam;
– Dịch vụ hoặc dịch vụ gắn với hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT do Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài cung cấp ngoài Việt Nam và tiêu dùng tại Việt Nam.”
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp Công ty TNHH Phát triển Kỹ thuật Việt Nam ký kết hợp đồng với Công ty Safe Airport Solution Hong Kong để được cung cấp dịch vụ thử nghiệm mẫu cho mặt hàng dây nhôm lõi composite và phụ kiện ACCC trước khi nhập khẩu về Việt Nam thì dịch vụ thử nghiệm này thuộc đối tượng áp dụng thuế nhà thầu tại Việt Nam.
5. Người lao động nhận được khoản thu nhập bằng tiền hoặc hiện vật do tham gia các cuộc thi có thưởng của Công ty tổ chức thì khoản thu nhập này được xác định là thu nhập từ trúng thưởng. Nếu phần giá trị giải thưởng vượt trên 10 triệu đồng thì Công ty thực hiện khấu trừ thuế TNCN trước khi trả thưởng
Công văn số: 61175/CTHN-TTHT của cục thuế Thành phố Hà Nội
Cục Thuế TP Hà Nội nhận được công văn số 41/2023/CV-SAHN ngày 26/7/2023 của Công ty TNHH Sun Asterisk Việt Nam đề nghị giải đáp vướng mắc về việc thuế TNCN từ việc trúng thưởng của nhân viên. Cục Thuế TP Hà Nội có ý kiến như sau:
+ Tại điểm g khoản 1 Điều 25 quy định về khấu trừ thuế và chứng từ khấu trừ thuế
“Điều 25. Khấu trừ thuế và chứng từ khấu trừ thuế
1. Khấu trừ thuế
Khấu trừ thuế là việc tổ chức, cá nhân trả thu nhập thực hiện tính trừ số thuế phải nộp vào thu nhập của người nộp thuế trước khi trả thu nhập, cụ thể như sau:
g. Thu nhập từ trúng thưởng
Tổ chức trả tiền thưởng có trách nhiệm khấu trừ thuế thu nhập cá nhân trước khi trả thưởng cho cá nhân trúng thưởng, số thuế khấu trừ được xác định theo hướng dẫn tại Điều 15 Thông tư này.…”
Căn cứ các quy định trên, trường hợp người lao động nhận được khoản thu nhập bằng tiền hoặc hiện vật do tham gia các cuộc thi có thưởng của Công ty tổ chức thi khoản thu nhập này không được xác định là thu nhập từ tiền lương, tiền công theo quy định của Bộ Luật Lao động mà được xác định là thu nhập từ trúng thưởng theo hướng dẫn tại khoản 6 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/08/2013 của Bộ Tài chính. Nếu phần giá trị giải thưởng vượt trên 10 triệu đồng mà cá nhân trúng giải thưởng nhận được thì Công ty thực hiện khấu trừ thuế TNCN trước khi trả thưởng cho cá nhân trúng thưởng, số thuế khấu trừ được xác định theo hướng dẫn tại Điều 15 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013.